Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một
đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa
nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ Việt Nam đã trở thành lực lượng lao
động chính.
Bên cạnh đó, nước ta
luôn luôn bị kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo khổ. Từ thực tế đó mà người
phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng.
Họ
là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm, là người lao
động cần cù, sáng tạo, thông minh, là người giữ vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân
tộc.
Ngoài ra, họ còn là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới
chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ Việt Nam là lớp người bị áp bức,
bóc lột, chịu nhiều bất công nhất nên luôn có yêu cầu được giải phóng và
sẵn sàng đi theo cách mạng.
Ngay
từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ Việt Nam đã tham gia đông đảo vào
phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn có nhiều phụ nữ
nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai.
Từ
năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông
đảo tầng lớp phụ nữ Việt Nam như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm
tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ.
Năm
1927 nhóm các chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy
là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Thanh niên Cách mạng
đồng chí Hội, các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten và học
chữ.
Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh.
Năm
1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An
tham gia sinh hoạt hội đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân,
chị Thiu, chị Nhuận, chị Liên thành lập tờ Phụ nữ Giải phóng ở Vinh.
Năm
1930, trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An, Hà Tĩnh có 12.946
chị tham gia phụ nữ giải phóng, cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính
quyền Xô Viết ở trên 300 xã.
Ngày
1/5/1930, chị Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của
hơn 4.000 nông dân ở hai huyện Châu Thành, Mỹ Tho, trong đó có hàng ngàn
phụ nữ tham gia.
Ngày 3/2/1930,
Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi:
"Nam nữ bình quyền". Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ Việt Nam là lực lượng
quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ,
gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ.
Đảng
đặt ra mục tiêu, phụ nữ Việt Nam phải tham gia các đoàn thể cách mạng
(công hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn
các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.
Chính
vì vậy mà ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được thành
lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai
trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự
nghiệp giải phóng phụ nữ.
Đảng cộng
sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày
truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và
tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam".
Vào
ngày 20 tháng 10 năm 1930, Hội Phụ nữ phản đế Việt Nam (nay đổi tên là
Hội Phụ nữ Việt Nam) chính thức được thành lập, để đánh dấu sự kiện này.
Đảng
Cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày
truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và
tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là "Ngày Phụ nữ Việt Nam".